Hoa hòe có tác dụng tăng cường sức đề kháng, giảm tính thấm của mao mạch, hồi phục tính đàn hồi của mạch máu đã tổn thương.
Cây hòe [ Styphnolobium japonicum (L.) Schott], họ Đậu (Fabaceae) là cây nhỡ, cao đến 7 m, cành hình trụ, nhẵn. Lá kép lông chim lẻ, mọc so le, các lá chét mọc đối. Cụm hoa mọc thành chùm ở đầu cành, màu trắng hoặc vàng nhạt. Quả đậu hình tràng hạt, thắt lại không đều giữa các hạt. Hòe được trồng ở nhiều nơi trong nước ta, nhất là các tỉnh đồng bằng sông hồng, như Thái Bình, Hưng Yên, Hải Dương, Nam Định… để lấy nguyên liệu xuất khẩu, chiết xuất rutin và làm thuốc trong YHCT. Chỉ thu hái hoa hòe khi đã có từ 5 – 10 % hoa đã nở, ta thu được nụ hòe, có kích thước bằng hạt gạo tẻ; do vậy mà có tên là hòe mễ (mễ là gạo).
Hoa hòe có tác dụng tăng cường sức đề kháng, giảm tính thấm của mao mạch, hồi phục tính đàn hồi của mạch máu đã tổn thương.Tác dụng chống viêm. Làm giảm sự tiêu hao oxy của cơ tim. Tác dụng cầm máu (hoa hòe hòe sao cháy). Tác dụng hạ huyết áp; bảo vệ gan (rutin), Chống kết tập tiểu cầu (rutin, quercetin); hạ cholesterol máu; cường tim và giãn động mạch vành; giải co thắt cơ trơn phế quản và ruột (quercetin).
Liều lượng, ngày 4 – 12g, dạng thuốc sắc hoặc thuốc hãm.
Cần lưu ý, không dùng hoa hòe cho phụ nữ có thai.
Một số chứng bệnh thường dùng hoa hoè:
– Trị máu cam, trĩ xuất huyết, nụ hòe, trắc bách diệp, ngải diệp, tất cả đều sao cháy, mỗi vị 10g. Sắc uống ngày một thang.
– Trị tăng huyết áp, đau mắt, nụ hòe (sao vàng), lá sen, mỗi vị 10, cúc hoa vàng 4g, sắc uống ngaỳ một thang.
– Trị đaị tiểu tiện ra máu, hoa hòe, trắc bách diệp, mỗi vị 20g, hoàng liên, kinh giới , mỗi vị 8g, sắc uống, ngày một thang chia hai lần.
– Trị đi ngoài ra máu, các trường hợp huyết nhiệt, mao mạch giòn, huyết áp tăng, hòe hoa, thảo quyết minh, đều sao vàng, lượng bằng nhau 8 – 10g, dưới dạng thuốc hãm, uống nhiều ngày .
– Trị trĩ nội, viêm ruột, quả hòe ( sao đen), kim ngân hoa, mỗi vị 100g, cam thảo 10g, nghệ vàng 10g. Tán bột mịn, ngày uống 3 lần, mỗi lần 8 – 10g.