Ngoài việc dùng trong y học, hạt cải bẹ còn được dùng để chế biến gia vị “mù tạt”, và dùng ép dầu làm nguyên liệu chế biến phụ tử.
1. Nhận biết rau cải bẹ
Cải bẹ hay còn gọi là cải canh [ Brassica juncea (L.) Czerm et Cosson], họ Cải (Brassicaceae), là cây thảo, sống hàng năm. Thân hình trụ nhẵn, khi ra hoa có thể cao hơn 1 mét. Phiến lá to và rộng, phía dưới có rãnh sâu, lượn sóng, mép có răng cưa thô. Hoa màu vàng, mọc ở kẽ lá và ở ngọn.
Quả thuôn dài, đầu có mũi nhọn. Hạt nhỏ, hình cầu, màu vàng hoặc nâu. Là cây được trồng hầu như ở tất cả các vùng trong cả nước, nhiều nhất ở các vùng đồng bằng sông Hồng, như ở các tỉnh Thái Bình, Hưng Yên, Hải Dương….
2. Giá trị sử dụng của cải bẹ
Là cây vừa có giá trị về mặt thực phẩm vừa có giá trị làm thuốc trong YHCT. Người ta thu hái các quả, để đập lấy hạt làm thuốc. Hạt cải bẹ có tên vị thuốc là bạch giới tử ( Semen Brassicae allbae) chứa chất dầu mà thành phần chủ yếu là a xít béo sinapic, arachidic, crucic… , có tinh dầu, được hình thành chủ yếu sau khi thủy phân glucosid sinigrosid có trong hạt cải bởi enzym myrosinase (có trong hạt cải) để cho chất sulfat axít Kali glucose và alyl isothiacyanat (cò ngọi là tinh dầu mù tạc) có mùi đặc trưng của họ Cải. Sản phẩm này có tác dụng kích thích da, gây sung huyết. Trên cơ sở đó làm tan các mụn nhọt, giảm đau cơ, đau dây thần kinh. Tuy nhiên nếu sử dụng thời gian dài hoặc liều cao có thể làm rộp da, hoặc gây nôn, gây viêm dạ dày, ruột, dẫn đến đau bụng.
Ngoài việc dùng trong y học, hạt cải bẹ còn được dùng để chế biến gia vị “mù tạc”, và dùng ép dầu làm nguyên liệu chế biến phụ tử.
Trước khi dùng, tùy theo yêu cầu có thể tiến hành chế biến theo một số phương pháp vi sao, sao đen, sao vàng.
3. Tác dụng của cải bẹ theo y học cổ truyền
Theo YHCT, bạch giới tử có tác dụng ôn phế, trừ đàm hàn, giảm đau, tiêu thũng, tán kết, thông kinh lạc, hành khí, lợi khí. Dùng trị ho hàn, nhiều đờm, suyễn tức, khó thở, sườn ngực đau trướng, xương khớp tê đau.
Liều dùng, ngày 3 – 9g, dạng thuốc sắc hoặc hoàn, tán.
Kiêng kỵ, phế hư, ho khan,
Không nên sử dụng thời gian dài hoặc liều cao.
4. Một số chứng bệnh thường dùng hạt cải bẹ:
– Trị ho đờm, suyễn kéo dài, hạt cải bẹ, hạt cải củ, cò ngọi là lai phục tử (Semen Raphani), quả tía tô, cò ngọi là tô tử (Fructus Perillae frutescentis), đồng lượng 6 – 9g, dưới dạng thuốc sắc hoặc thuốc bột.
– Trị mụn nhọt sưng đau, đau họng, hạt cải bẹ 9g vi sao, nghiền mịn, thêm chút nước, quấy đều tạo thành dạng hồ nhão, lấy bông sạch chấm thuốc, bôi vào nơi sưng đau, nếu đau họng thì bôi quanh vùng ngoài yết hầu, nếu nhọt bọc, hoặc viêm hạch lâm ba thì bôi chỗ sưng, làm nhiều lần trong ngày .
– Trị đau đầu, hạt cải bẹ 8g, vi sao, tán mịn, mặt khác lấy 10g gừng tươi, rửa sạch, thái phiến, giã nát, vắt lấy nước cốt. Đem bột hạt cải bẹ trộn đều với nước gừng, rồi bôi vào vùng gáy.
PGS.TS Phạm Xuân Sinh
Nguyên Chủ nhiệm Bộ môn Dược học cổ truyền, Trường Đại học Dược Hà Nội
Trích từ cuốn sách “Tác dụng kỳ diệu của 50 cây thuốc quanh ta”